Từ nguyên của kim chi là từ đầu tiên được ghi là ‘dim ᄎ trong chữ Hán (菹)’, có nghĩa là thực phẩm rau muối, trong sách Hán tự của triều đại Joseon (1527).
Đây là một nguồn bằng chứng cho thấy cách phát âm cũ của kimchi là ‘dimchae’. Cũng có ý kiến cho rằng chữ Hán ‘chimchae (沈 菜)’, có nghĩa là ‘rau muối’, đã đổi thành ‘kim chi’ qua ‘dimchae’ và ‘jimchae’.
Mặt khác, có thể thấy rằng từ gốc tiếng Hàn ‘dimchae’ được mượn từ âm thanh và ý nghĩa của ‘chimchae’. Trước đó, chữ Hán ‘che (菹)’ xuất hiện vào triều đại Goryeo (1451)
Có thể tìm thấy những ghi chép về ‘thực phẩm làm rau muối’, nguồn gốc của kim chi được tìm thấy trong văn học Trung Quốc Shijing (khoảng thế kỷ 10 đến thế kỷ 7 trước Công nguyên).
Các chuyên gia xứ kim chi chỉ ra rằng: “Có sự khác biệt giữa Bán đảo Triều Tiên và Trung Quốc tùy thuộc vào môi trường cũng như sở thích, vì vậy tính lịch sử của xứ kim chi cần được đánh giá dựa trên nguồn gốc văn hóa của nó”.
Từ quan điểm nguồn gốc văn hóa, sự khác biệt giữa kim chi Hàn Quốc và rau muối Trung Quốc được tìm thấy trong cách họ muối rau. Ở Trung Quốc, rau được ngâm và cất với rượu, chẳng hạn như rượu hoặc giấm, trong khi ở Hàn Quốc, rau được ngâm và lên men với nước tương và muối.
Do đó, rau muối Trung Quốc là thực phẩm lưu trữ axit axetic, và Hàn Quốc thành văn hóa thực phẩm lên men axit lactic. Đó là một sự khác biệt quan trọng mang lại cái nhìn về sự độc đáo của kim chi.
Tại sao lại bắt đầu thêm bột ớt đỏ vào kim chi?
Ngoài các khía cạnh khoa học màu đỏ của ớt đỏ có tác dụng kích thích vị giác vì vậy người ta cho rằng việc sử dụng màu đỏ đã được chấp nhận sau khi kim chi được nhuộm bằng cây rum đỏ đã xuất hiện trong đầu triều đại Joseon.
Tỏi và ớt đỏ là những loại gia vị khiến miệng chúng ta có cảm giác cay xé lưỡi. Ngoài ra, ‘hành lá’ một phần thiết yếu, cùng với tỏi, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp người ta với vị cay, hơn nữa sẽ thích vị cay độc đáo của ớt hơn so với tỏi và hành lá.
Kim chi là một loại thực phẩm tốt cho sức khỏe với hiệu quả đã được khoa học chứng minh. Vì các loại rau như củ cải, cải thảo và củ cải, và các loại gia vị như cá muối và ớt đỏ, tỏi và gừng, là thức ăn động vật, được trộn và ủ nên giá trị dinh dưỡng của chúng thay đổi tùy thuộc vào thành phần được sử dụng, tỷ lệ trộn. giữa các thành phần và mức độ lên men.
Kim chi là một loại thực phẩm có hàm lượng calo thấp bao gồm chủ yếu là rau và có hàm lượng chất xơ, vitamin và khoáng chất cao hơn bất kỳ loại thực phẩm nào khác.
Chất xơ có trong bắp cải hoặc củ cải giúp ngăn ngừa các bệnh ở người lớn như huyết áp cao, tăng lipid máu và tiểu đường, đồng thời giúp ngăn ngừa táo bón, ăn kiêng và ung thư.
Kim chi chứa vitamin A, B và C. Đặc biệt, trong quá trình lên men vi khuẩn lactic tăng lên rất nhiều vitamin nhóm B như vitamin B1, B2, B12, niacin. Vitamin C, beta-carotene và chất diệp lục có trong kim chi hoạt động như chất chống oxy hóa và có hiệu quả trong việc ức chế lão hóa.
Ngoài ra, kim chi còn đóng vai trò quan trọng là nguồn cung cấp các khoáng chất như canxi, kali, sắt, phốt pho, đặc biệt là hàm lượng canxi cao.
Kim chi tạo ra vi khuẩn axit lactic trong quá trình lão hóa, và vi khuẩn axit lactic có trong kim chi lên men tự nhiên có tác dụng ngăn ngừa táo bón và ung thư ruột kết bằng cách ức chế sự phát triển của vi khuẩn có hại như vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm và tác nhân gây bệnh và hoạt động như nhu động ruột.
Ngoài ra, các chất dinh dưỡng khác nhau có trong kim chi được biết là có hiệu quả trong việc chống ung thư, tăng cường miễn dịch, tiêu hóa, giảm căng thẳng, ngăn ngừa lão hóa da và ăn kiêng.
Đặc biệt, chất capsaicin có trong bột ớt đỏ giúp kiểm soát cân nặng bằng cách đốt cháy chất béo bằng cách kích hoạt sự trao đổi chất..